A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

BỆNH TĂNG TIẾT MỒ HÔI (Hyperhidrosis)

  1. ĐẠI CƯƠNG

Tiết mồ hôi là một hoạt động sinh lý của cơ thể, nhằm tự làm mát để duy trì sự ổn định của nhiệt độ khi bị sốt hoặc hoạt động thể chất hay ở trong môi trường nóng bức. Cơ thể con người có từ 2 – 4 triệu tuyến mồ hôi, do 2 loại tuyến kết hợp. Tuyến apocrine có mặt ở khắp mặt da của cơ thể, bài tiết ra mồ hôi không có mùi mà thành phần là nước và điện giải. Tuyến apocrine có mặt ở các nếp gấp bẹn, nách, và ống tai thường tiết mồ hôi có mùi đặc trưng và chất béo, tạo nên mùi mồ hôi khác nhau ở mỗi người.

Tăng tiết mồ hôi là một biểu hiện bất thường do tiết mồ hôi quá mức yêu cầu điều tiết mồ hôi của cơ thể trong điều kiện bình thường và không kiểm soát được.

Tăng tiết mồ hôi có thể do nguyên phát hoặc thứ phát. Tăng tiết mồ hôi nguyên phát có tính chất khu trú. Tăng tiết mồ hôi thứ phát thường lan tỏa, có thể xảy ra sau khi bị rối loạn chuyển hóa, sốt hay sau khi sử dụng thuốc, ngộ độc rượu…

Mặc dù có thể có nhiều vùng trên cơ thể có biểu hiện tăng tiết mồ hôi, tuy nhiên phổ biến nhất hay gặp là tăng tiết mồ hôi ở bàn tay, bàn chân (có khoảng 700 tuyến trên mỗi cm2).

Tỉ lệ mắc bệnh: chiếm 0,6 – 1 % thanh thiếu niên.

Bệnh không ảnh hưởng tính mạng nhưng gây ảnh hưởng chất lượng cuộc sống, công việc, các hoạt động hàng ngày.

  1. NGUYÊN NHÂN VÀ BỆNH SINH

Người ta chưa xác định được căn nguyên gây bệnh.

2.1. Tăng tiết mồ hôi nguyên phát (khu trú)

Một số tác giả cho rằng tăng tiết mồ hôi nguyên phát là do tăng hoạt động của hệ thần kinh giao cảm (cường giao cảm). Ngoài ra một số yếu tố khác cũng thấy có vai trò trong sinh bệnh như sử dụng các thức ăn cay, nóng, thuốc lá, cà phê.

Một số nguyên nhân gây tăng tiết mồ hôi khu trú: do thời tiết nóng, tập thể dục, sốt, lo lắng, ăn thực phẩm cay nóng. Hoặc do chấn thương, tổn thương thần kinh cột sống và ngoại biên, phẫu thuật hạch thần kinh giao cảm, bệnh thần kinh và khối u vùng não, rối loạn lo âu thứ phát, nghiện rượu mạn tính.

Một số nhóm nguyên nhân khác: béo phì, tiểu đường, mãn kinh, tuyến giáp hoạt động quá mức, rối loạn tim mạch, suy hô hấp, bệnh Parkinson, khối u nội tiết, bệnh Hodgkin, hoặc do sử dụng thuốc (caffein, corticosteroid, ức chế enzym cholinesterase, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin, nicotinamid, thuốc chống trầm cảm 3 vòng.

2.2. Tăng tiết mồ hôi thứ phát lan tỏa

Gặp ở các bệnh hệ thống, hoặc do tác dụng phụ của thuốc, rối loạn chuyển hóa. Ví dụ như hội chứng Harlequin có biểu hiện gây tăng tiết mồ hôi không đối xứng, tiết nhiều vào vùng mặt, cổ và vùng trên ngực. Bệnh có thể do một chấn thương của hệ thần kinh giao cảm, như sau nội soi hạch giao cảm ở ngực (ETS) hoặc sau phẫu thuật nội soi phong tỏa hạch giao cảm (ESB).

Tăng tiết mồ hôi thứ phát lan tỏa ảnh hưởng toàn bộ da của cơ thể. Tăng tiết mồ hôi lan tỏa ảnh hưởng toàn bộ da của cơ thể. Tăng tiết mồ hôi lan tỏa thường do hoạt động quá mức của trung tâm điều nhiệt ở vùng dưới đồi, và được truyền qua hệ thống thần kinh giao cảm tới tuyến apocrine.

3.TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

Bệnh dễ phát hiện và chẩn đoán qua các thông tin do người bệnh tự mô tả, cũng như qua khám thực thể.

3.1. Chẩn đoán

Tiêu chuẩn chẩn đoán chính: tăng tiết mồ hôi trên 6 tháng trở lên.

Tiêu chuẩn phụ: gồm 4 tiêu chuẩn

Xảy ra ở vị trí có nhiều tuyến apocrine (lòng bàn tay, bàn chân, nách).

Có tính chất đối xứng tương đối

Không xuất hiện vào ban đêm

  • Một tuần xuất hiện ít nhất một lần
  • Khởi phát ở tuổi 25 tuổi trở xuống; có tiền sử gia đình.
  • Làm giảm các hoạt động hàng ngày.
  • Biểu hiện tăng tiết mồ hôi có thể khu trú hay lan tỏa.
  • Tăng tiết mồ hôi khu trú: thấy ở nách, lòng bàn tay, bàn chân, mặt hoặc các vùng khác.

3.2. Phân loại

Tăng tiết mồ hôi nguyên phát (khu trú): bắt đầu ở trẻ em hoặc vị thành niên; có thể tồn tại suốt đời, hoặc cải thiện theo tuổi. Bệnh có thể có yếu tố gia đình; vị trí liên quan đến nách, lòng bàn tay, lòng bàn chân hoặc đối xứng. Đổ mồ hôi thường giảm vào ban đêm, và biến mất trong khi ngủ.

Tăng tiết mồ hôi thứ phát: ít gặp hơn, thường không đối xứng, hay lan tỏa. Có thể xảy ra vào ban đêm hoặc trong khi ngủ. Do nội tiết thần kinh.

3.3. Ảnh hưởng

Tăng tiết mồ hôi gây ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày và gây mất tự tin:

Tăng tiết mồ hôi vùng nách: quần áo trở nên ẩm ướt ngả màu và phải được thay đổi nhiều lần trong ngày. Các nếp da ẩm ướt dễ bị nấm, viêm da kích ứng và nhiễm trùng.

Tăng tiết mồ hôi bàn tay: tay trơn trượt dẫn đến tránh bắt tay. Dễ để lại vết trên quần áo, giấy tờ. Khó khăn trong việc viết, gây ảnh hưởng đến thiết bị điện tử như bàn phím và trackpad. Dễ bị viêm, rộp da tay.

Tăng tiết mồ hôi bàn chân: ảnh hưởng đến lòng bàn chân, gây mùi khó chịu, giày dép bị hủy hoại. Dễ viêm rộp, bị nhiễm trùng thứ cấp (nấm da chân,…).

Tăng tiết mồ hôi lan tỏa: mồ hôi tiết nhiều khắp cơ thể.

4. XÉT NGHIỆM

Các xét nghiệm liên quan đến tìm nguyên nhân cơ bản của tăng tiết mồ hôi thứ phát hơn là nguyên phát.

Các xét nghiệm cần thực hiện: đường máu, đường tế bào, xét nghiệm chức năng tuyến giáp.

5. ĐIỀU TRỊ

5.1. Cải thiệt điều kiện sinh hoạt

Không mặc quần áo bó sát, thay thường xyên, mặc các loại vải có tính thấm mồ hôi tốt.

Sử dụng tất có lớp bạc, lót giày thay thường xuyên.

Dùng các chất khử mùi tại chỗ.

Xoa ban ngày bột talc hoặc phèn chua sau tắm.

Không dùng các sản phẩm có chứa cafein, các thuốc gây tăng tiết mồ hôi.

Chống bài tiết mồ hôi bằng muối nhôm 10 – 25% (amilunium chlorid).

5.2. Các phương pháp điều trị

Liệu pháp ion: đối với tăng tiết mồ hôi lòng bàn tay, bàn chân và nách:

Sử dụng nguồn điện đưa ion qua da, thông qua hệ thủy phân. Thời gian 10 – 20 phút/ ngày trong nhiều ngày.

Có thể gây ra cảm giác khó chịu, kích ứng hoặc viêm da tiếp xúc.

Cần điều trị lâu dài, và không có hiệu quả tuyệt đối.

Thuốc kháng acetylcholin: propanthelin 15 – 30mg x 3 lần/ngày, oxybutynin 2,5 – 7,5 mg/ngày, benzotropin, glycopyrrolat (hiện nay không còn được chỉ định). Có thể gây khô miệng, nhìn mờ, táo bón, chóng mặt, đánh trống ngực. Không dùng cho người tăng nhãn áp và bí tiểu. Thận trọng ở BN cao tuổi vì thuốc tăng tác dụng phụ có thể gây mất trí nhớ.

Thuốc chẹn beta giao cảm (không phù hợp với BN bị hen xuyễn hoặc bệnh mạch máu ngoại vi), thuốc chẹn kênh calci, thuốc chống viêm không steroid và anxiolytics cũng có hiệu quả điều trị trong một số trường hợp.

Liệu pháp can thiệp tại chỗ:

Tiêm botulinum toxin: tiêm trong da, điều trị cho tăng tiết mồ hôi khu trú nách, bàn tay, bàn chân. Hiệu quả điều trị 2 – 8 tháng.

Phẫu thuật cắt bỏ tuyến mồ hôi nách: tuyến mồ hôi hoạt động quá mức ở nách có thể loại bỏ bằng một số phương pháp: hút tuyến, nạo bỏ tuyến, hoặc cắt bỏ hoàn toàn các tuyến, sau đó đóng trực tiếp hoặc ghép da. Gây tê tại chỗ khi thực hiện.

Sóng siêu âm (hệ thống MiraDry® được FDA chấp nhận năm 2011).

Laser YAG: hiệu quả thấp.

Phẫu thuật thần kinh giao cảm: phẫu thuật nội soi hoặc phẫu thuật (ETS) có thể làm giảm mồ hôi trên mặt (hạch T2), nách, tay (hạch T3, hoặc T4), nhưng chỉ dành riêng cho các trường hợp nặng do các rủi ro tiềm năng và biến chứng.

Tăng tiết mồ hôi có thể tái phát vùng can thiệp. Da thường dễ nóng và khô ráp. Tái phát ở những vùng da khác chiếm khoảng 50 – 90% trường hợp (phẫu thuật cắt hạch giao cảm T4 gặp ít hơn so với T2).

Biến chứng: Hội chứng Horner, tràn khí màng phổi chiếm 10%, viêm phổi và đau dai dẳng chiếm 2%.

Không phẫu thuật tăng tiết mồ hôi cho hạch giao cảm thắt lưng khi tăng tiết ở bàn chân vì có thể gây ảnh hưởng chức năng sinh dục.

Tiến triển: tăng tiết mồ hôi nguyên phát thường giảm dần theo độ tuổi. Tăng tiết mồ hôi thứ phát tiến triển tùy thuộc vào nguyên nhân và khu vực bị ảnh hưởng.

 

 

 

 

 

Bệnh tăng tăng tiết mồ hôi (ảnh nguồn internet)

 


Tác giả: BAN BIÊN TẬP
Nguồn:Trung tâm da liễu Hải Phòng Copy link
Tổng số điểm của bài viết là: 35 trong 7 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin tức