Xét nghiệm tế bào học trong chẩn đoán một số bệnh Da liễu
Tế bào học (cytology) là một thuật ngữ y học có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp nghiên cứu về tế bào đơn lẻ – các đặc điểm hình thái nội tại cũng như chức năng của chúng. George Papanicolaou được coi là cha đẻ của chuyên ngành tế bào học. Kỹ thuật này để chẩn đoán các bệnh da có bọng nước, đặc biệt là herpes simplex. Từ đó tế bào học đã được kế thừa, phát triển, sử dụng rộng rãi bởi các bác sĩ da liễu để chẩn đoán các bệnh da khác nhau.
1. Lấy bệnh phẩm:
– Các bệnh da có bọng nước: Mẫu phải được lấy từ bọng nước mới, lật mái bọng nước, thấm dịch và nạo bằng một con dao cùn .
– Tổn thương loét: dùng dao cùn nạo đáy vết loét.
– Tổn thương nang: dùng bơm kim kiêm chọc hút.
– Tổn thương u bề mặt tương đối lành: dùng dao rạch tổn thương vừa phải, nạo 2 mép vết thương.
– Các bệnh da có bọng nước: Mẫu phải được lấy từ bọng nước mới, lật mái bọng nước, thấm dịch và nạo bằng một con dao cùn .
– Tổn thương loét: dùng dao cùn nạo đáy vết loét.
– Tổn thương nang: dùng bơm kim kiêm chọc hút.
– Tổn thương u bề mặt tương đối lành: dùng dao rạch tổn thương vừa phải, nạo 2 mép vết thương.
2. Phết bệnh phẩm lên lam.
3. Để khô tự nhiên.
4. Cố định bệnh phẩm bằng cồn.
5. Nhuộm Giemsa: Giemsa được pha loãng 1:10 với nước cất. Phủ giemsa và giữ trong 15 phút. Sau đó, rửa sạch bằng nước và quan sát dưới kính hiển vi.
3. Để khô tự nhiên.
4. Cố định bệnh phẩm bằng cồn.
5. Nhuộm Giemsa: Giemsa được pha loãng 1:10 với nước cất. Phủ giemsa và giữ trong 15 phút. Sau đó, rửa sạch bằng nước và quan sát dưới kính hiển vi.
6. Chẩn đoán tế bào học trong một số bệnh Da liễu
6.1. Bệnh da có bọng nước
* Pemphigus: Trong tất cả các thể của bệnh pemphigus đều có tế bào gai lệch hình
– Pemphigus vulgaris: thấy tế bào gai lệch hình.
– Pemphigus sùi: Có tế bào gai lệch hình và bạch cầu đa nhân ái toan.
– Pemphigus vảy lá và pemphigus da mỡ: Có tế bào gai lệch hình, trong nguyên sinh chất thường chứa hyalinized nhạt màu.
Hình 1: Tế bào gai lêch hình
* Hội chứng Stevens-Johnson (SJS), hội chứng bong vảy da do tụ cầu (SSSS), độc tính hoại tử biểu bì (TEN)
– TEN, SJS: nhiều tế bào biểu mô thoái hóa, tế bào viêm rải rác và nguyên bào sợi.
– SSSS: nhiều tế bào gai lệch hình, nguyên sinh chất hyalinized hóa với rất ít tế bào viêm.
* Pemphigoid: không thấy tế bào gai lệch hình, chủ yếu bạch cầu đa nhân ái toan.
* Pemphigoid: không thấy tế bào gai lệch hình, chủ yếu bạch cầu đa nhân ái toan.
* Durhing Brocq, lupus thể bọng nước: không thấy tế bào gai lệch hình, chủ yếu bạch cầu đa nhân trung tính.
* Lichen phẳng thể bọng nước: rải rác lympho bào.
* Viêm da tiếp xúc dị ứng: nhiều bạch cầu đa nhân ái toan.
6.2. Bệnh da nhễm trùng
* Herpes simplex, thủy đậu, herpes zoster: Có tế bào gai lệch hình và tế bào đa nhân khổng lồ.
* Chốc: các tế bào gai lệch hình cũng có thể được nhìn thấy nhưng chúng thường được kết hợp với nhiều bạch cầu trung tính.
* U mềm lây: xuất hiện thể vùi- ưa basơ, đồng nhất, hình trứng bao quanh bởi lớp màng.
* Bệnh chân tay miệng: không thấy tế bào gai lệch hình và tế bào đa nhân khổng lồ, thấy nhiều tế bào biểu mô thoái hóa.
Hình 2: Tế bào đa nhân khổng lồ
Hình 3: Thể vùi trong u mềm lây
* Nấm dạng mụn mủ, mụn nước: xuất hiện sợi nấm và giả sợi.
* Leishmaniasis: tế bào của Wright - tế bào đại thực bào với 1 nhân to lập dị và một nhân nhỏ ở cực ngược lại, nhiều động vật nguyên sinh nhóm lại với nhau như đàn ong.
Hình 4: Tế bào của Wright
Tế bào học ngày càng được các bác sỹ da liễu quan tâm mặc dù không thể thay thế cho mô học. Với một bác sỹ da liễu kinh nghiệm thì tế bào học hỗ trợ nhiều cho các chẩn đoán lâm sàng ban đầu. Tế bào học củng cố cho giải phẫu bệnh mô học. Kỹ thuật này là giá rẻ, dễ thực hiện và rất ít xâm lấn cho bệnh nhân.
Nguồn:Trung tâm da liễu Hải Phòng Copy link